Bài tập tình huống tội cướp giật tài sản, tội tẩu tán tài sản, tội chiếm giữ trái phép tài sản và tiêu thụ tài sản biết rõ do người khác phạm tội mà có

Bài tập tình huống

Chị A đi xe máy thăm người quen, dọc đường bị chết máy. Đang loay hoay khời động lại xe thì thấy H đi qua. Chị A nhờ H sửa chữa xe máy. Sau một hồi sửa chữa H ngồi lên yên, khởi động xe và phóng đi . Chị A hô mọi người giữ lại nhưng không được. H đem xe máy đến nhà B (là người quen của H) gửi và nói cho B biết sự việc vừa xảy ra, sau đó H đem đi bán được 25.000.000 đồng và rủ B đi nhậu.

Hỏi:

1. Hành vi của H cấu thành tội gì? Tại sao?
2. B có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Tại sao?

Đáp án:

1. Hành vi cùa H cấu thành tội cướp giật tài sản theo Điều 168 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017)

– Mặt khách quan: Tội cướp giật tài sản thể hiện ở chỗ hành vi của A đã công khai chiếm đoạt tài sản một cách nhanh chóng để tránh sự phản kháng của chủ tài sản. Cướp giật tài sản là một trong bốn tội phạm của nhóm tội chiếm đoạt có tính chất công khai về hành vi khách quan của chủ thể. Trong đó cướp giật tài sản là hành vi lợi dụng sơ hở của chủ tài sản (sơ hở sẵn có hoặc do chính người cướp giật tạo ra) nhanh chóng chiếm đoạt tài sản và nhanh chóng lẩn tránh. Thủ đoạn nhanh chóng lẩn tránh trong thực tế thường là nhanh chóng tẩu thoát.

H không phạm tội cưỡng đoạt tài sản hay cướp tài sản vì H không dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hay dùng các thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần của chị A…Hành vi của H là công khai, không lén lút nên không thể là tội trộm cắp tài sản. Hành vi của H không thuộc các hành vi được quy định tại Tội lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. H không dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của chị A vì nếu sau khi đã có tài sản một cách hợp pháp rồi mới có ý định chiếm đoạt tài sản thì không phải hành vi chiếm đoạt tài sản. Thủ đoạn gian dối của người phạm tội bao giờ cũng phải có trước khi có việc giao tài sản giữa người bị hại với người phạm tội thì mới là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nếu thủ đoạn gian dối lại có sau khi người phạm tội nhận được tài sản thì không phải là lừa đảo chiếm đoạt tài sản. H không thể có mục đích lừa dối chị A từ trước được vì việc chị A bất ngờ hỏng xe giữa đường và nhờ H sửa là hoàn toàn ngẫu nhiên. H không phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản vì công nhiên chiếm đoạt tài sản là công khai chiếm đoạt tài sản, lợi dụng hoàn cảnh chủ tài sản không có điều kiện ngăn cản, ở đây thì chị A vẫn có điều kiện ngăn cản H.

Như vậy, hành vi cùa H chỉ cấu thành tội cướp giật tài sản theo quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự bởi vì:

Thứ nhất, H đã có hành vi công khai chiếm đoạt tài sản của chị A, cụ thể là hành vi “Sau một hồi sửa chữa H ngồi lên yên, khởi động xe và phóng đi mất”. H lợi dụng sơ hở của chị A là tin tưởng vào người lạ sẽ giúp mình sửa xe nên chị không đề phòng. Lúc H chiếm mất xe do quá bất ngờ nên chị A không giữ lại được chiếc xe mặc dù chị có khả năng giữ lại và chị biết là H đang chiếm đoạt chiếc xe của chị. Chị A hô hào nhờ người dân giúp đỡ nhưng không kịp.

Thứ hai, khi chiếm được chiếc xe của chị A, H đã có hành vi nhanh chóng tẩu thoát và tẩu tán tài sản. Thể hiện ở hành vi H khởi động xe và phóng vọt đi, sau đó H gửi xe tại nhà người quen là B rồi ngay sau đó mang đi tiêu thụ.

Cả hai hành vi công khai chiếm đoạt và nhanh chóng tẩu thoát đều là hành vi về mặt khách quan của tội cướp giật tài sản.

– Về khách thể của tội phạm là quyền sở hữu về tài sản của chị A

– Về mặt chủ quan, lỗi của H là lỗi cố ý trực tiếp.

– Về mặt chủ thể, xét theo tình huống H là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đúng quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.

2. B phạm tội chứa chấp tài sản do người khác phạm tội thể hiện ở hành vi là B biết trước sự việc chiếc xe máy là do cướp giật mà có nhưng vẫn nhận cất giữ mặc dù không có hứa hẹn trước với H.

Điều 168 Bộ luật hình sự 2015

Điều 168. Tội cướp tài sản

1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;

d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;

đ) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

e) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;

g) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

h) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên;

c) Làm chết người;

d) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

5. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

6. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.