Phân biệt việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm giam với bắt người trong trường hợp khẩn cấp?
Căn cứ Điều 80, Điều 81 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
1. Khái niệm:
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là bắt người đã bị khởi tố về hình sự hoặc người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử để tạm giam nhằm ngăn chặn bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Bắt người trong trường hợp khẩn cấp là bắt người khi người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội của họ hay bắt người sau khi thực hiện tội phạm mà người đó bỏ trốn, cản trở việc điều tra, khám phá tội phạm.
2. Đối tương và điều kiện áp dụng
– Đối với bắt tạm giam:
Đối tượng của việc bắt người để tạm giam chỉ có thể là bị can hoặc bị cáo. Những người chưa bị khởi tố về hình sự hoặc người chưa bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử không phải là đối tượng bắt tạm giam.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, bắt bị can, bị cáo để tạm giam không phải là biện pháp ngăn chặn duy nhất, vì thế không phải mọi bị can, bị cáo đều bị bắt để tạm giam. Việc quyết định bắt bị can bị cáo để tạm giam không phải căn cứ vào tính chất của tội phạm đã xảy ra, nhân thân người phạm tội và thái độ của người phạm tội sau khi thực hiện tội phạm. Điều đó có nghĩa là chỉ được bắt để tạm giam đối với một người khi có đủ căn cứ để xác định người đó đã thực hiện hành vi phạm tội mà xét thấy đáng bắt để tạo điều kiện cho việc điều tra xử lý tội phạm. Người phạm tội nhưng không đáng bắt thì kiên quyết không bắt. Đối với họ có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác. Ví dụ: bị can, bị cáo phạm tội lần đầu, tính chất ít nghiêm trọng hoặc phạm tội do vô ý, không có hành động cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử thì không cần bắt tạm giam. Đối với những bị can, bị cáo phạm tội có tính chất nghiêm trọng như phạm các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia, giết người, cướp tài sản… hoặc phạm tội ít nghiêm trọng nhưng có căn cứ để cho rằng họ sẽ trốn, tiếp tục phạm tội hoặc có hành động cản trở việc điều tra, xét xử thì cần kiên quyết bắt để tạm giam.
– Đối với bắt khẩn cấp
Chỉ được bắt khẩn cấp khi có một trong các căn cứ (trường hợp) sau đây:
Thứ nhất: Khi có căn cứ cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng, hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Đây là trường hợp cơ quan có thẩm quyền đã có quá trình theo dõi, kiểm tra, xác minh các tin tức thu được và có đủ cơ sở để khẳng định một người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm nghiêm trọng nên cần bắt ngay, để ngăn chặn kịp thời việc người đó gây thiệt hại cho xã hội.
Thứ hai: Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn.
Đây là trường hợp hành vi phạm tội đã được thực hiện, người phạm tội không bị bắt ngay lúc đó, nhưng người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm tận mắt chứng kiến hành vi phạm tội và trực tiếp xác định đúng là người đã thực hiện tội phạm, xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn.
Thứ ba: Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ.
Trong trường hợp này, cơ quan điều tra chưa có đủ tài liệu, chứng cứ xác định một người phạm tội mà chỉ mới phát hiện được những dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người đó và từ những dấu vết ấy mà người đó bị nghi thực hiện một tội phạm. Nếu xét thấy cần bắt ngay để ngăn chặn việc họ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ, thì phải ra lệnh bắt khẩn cấp.
3. Thẩm quyền ra lệnh bắt:
– Bắt tạm giam:
Trong giai đoạn điều tra, việc bắt bị can để tạm giam do Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp quyết định;
Trường hợp cơ quan điều tra ra lệnh thì lệnh bắt bị can để tạm giam phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Sự phê chuẩn của Viện kiểm sát là một thủ tục pháp lý bắt buộc nhằm kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của lệnh bắt để bảo đảm hiệu lực của lệnh bắt người cũng như sự cần thiết phải bắt tạm giam bị can. Ngoài ra, quy định việc xem xét để phê chuẩn lệnh bắt người của Cơ quan điều tra trước khi thi hành còn giúp hạn chế tình trạng lạm dụng quyền được áp dụng biện pháp ngăn chặn để tác động một cách trái pháp luật đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân vì những mục đích cá nhân. Những lệnh bắt người không có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp sẽ không có giá trị thi hành. Thời hạn xem xét để ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh bắt bị can để tạm giam là ba ngày kể từ khi Viện kiểm sát nhận được công văn đề nghị xét phê chuẩn cùng các tài liệu có liên quan đến việc bắt.
+ Trong giai đoạn truy tố, việc bắt bị can để tạm giam do Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp quyết định;
+ Trong giai đoạn xét xử, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam do Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Thẩm phán Tòa án quân sự các cấp; Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử quyết định.
– Bắt khẩn cấp:
+ Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp;
+ Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương, người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới;
+ Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.
4. Thủ tục:
Về cơ bản là giống nhau, tuy nhiên thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp có một số điểm khác.
Thứ nhất: Lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp không cần sự phê chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp trước khi thi hành. Qui định như vậy nhằm đảm bảo cho việc bắt đạt hiệu quả và kịp thời, đúng như tên gọi “khẩn cấp” của trường hợp bắt người này, nếu trì hoãn không tiến hành ngay thì sẽ mất cơ hội ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người có hành vi phạm tội trốn tránh hoặc gây khó khăn cho việc điều tra khám phá tội phạm.
Thứ hai: Sau khi đã bắt người, việc bắt khẩn cấp phải báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp bằng văn bản cùng các tài liệu liên quan để xét và phê chuẩn. Nếu Viện kiểm sát không phê chuẩn thì phải trả tự do ngay cho người bị bắt (thời hạn xét phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp quy định cho viện kiểm sát là 12 giờ kể từ khi nhận được đề nghị phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp).
Thứ ba: Trong trường hợp khẩn cấp được bắt người vào bất kỳ lúc nào, không kể ban ngày hay ban đêm.