Phân tích “Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội”, cho ví dụ cụ thể.

– Câu hỏi lý thuyết: Nêu được nội dung Điều 16 Bộ luật Hình sự 2015 quy định: Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản; Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.

– Phân tích các nội dung:

Bộ luật hình sự nêu khái niệm “tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội” là hoàn toàn chính xác và đầy đủ. Khái niệm pháp lý này có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác xét xử, nó xác định người có hành vi nguy hiểm có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không, chịu tới mức nào. Về lý luận, thì tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội chỉ xảy ta trong trường hợp tội phạm được thực hiện ở giai đoạn chưa hoàn thành và chuẩn bị phạm tội. Còn ở những giai đoạn khác không thể có “tự nguyện nửa chừng chấm dứt diệc phạm tội mà chỉ có thể tự ý chấm dứt tội phạm”. Ở giai đoạn phạm tội chưa đạt dã hoàn thành và giai đoạn phạm tội hoàn thành, người phạm tội đã thực hiện đầy đủ những dấu hiệu khách quan và chủ quan của tội phạm.

Ví dụ: H có hành vi buôn bán thuốc lá 555 ngoại trong một năm, sau không tiếp tục buôn bán nữa, mà chuyển sang buôn một số mặt hàng khác (không thuộc loại hàng cấm lưu thông), nhưng vì không có đăng ký kinh doanh, nên bị cơ quan điều tra bắt giữ. Trong quá trình điều tra, H đã khai ra hành vi buôn bán thuốc lá 555 trước dây. Tòa án cấp sơ thẩm đã xử H về tội buôn bán hàng cấm và phạt bị cáo 5 năm tù giam, Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: hành vi buôn thuốc lá 555 của H đã được “tự ý đình chỉ” nên đã miễn hình phạt. Ở đây, đúng là H đã có hành vi “tự ý chấm dứt tội phạm” không phải là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội vì tội phạm đã hoàn thành. Sau khi bị bắt về tội kinh doanh trái phép, H đã khai báo ra việc buôn bán thuốc lá 555 trước đây, đó là tự thú hoặc là khai báo thành khẩn, hoàn toàn khác với tự ý nửa chừng chấm dứt việc thực hiện tội phạm. Như vậy, khi chúng ta đã xác định tội phạm đã hoàn thành thì vấn đề “tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội” không đặt ra nữa.

Cũng không có vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc thực hiện tội phạm trong trường hợp phạm tội chưa đạt đã hoàn thành, vì phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là người phạm tội dã thực hiện đầy đủ những hành vi mà họ cho là cần thiết để gây ra hậu quả nhưng vì nguyên nhân khách quan hậu quả do đã không xảy ra. Ở đây người phạm tội đã hành động như ý muốn và tin là hậu quả sẽ xảy ra nhưng lại không xảy ra. Mặc dù người phạm tội dừng và không còn gì ngăn cản nhưng cũng không được coi là tự nguyện nửa chừng chấm dứt việc thực hiện tội phạm, vì người phạm tội đã thỏa mãn với hành vi mà họ đã gây ra, chỉ có hậu quả là y chưa thỏa mãn.

Đối với giai đoạn chuẩn bị phạm tội, nếu như người phạm tội tự nguyện không tiếp tục tội phạm nữa thì được coi là tự nguyện nửa chừng chấm dứt việc thực hiện tội phạm, vì ở giai đoạn này người phạm tội mới có hành vi tạo ra những cơ sở vật chất hoặc tinh thần cho việc thực hiện tội phạm. Nó chỉ là tiền đề cho việc xâm hại đến những quan hệ xã hội (khách thể); nó là sự bắt đầu thực hiện tội phạm, ở giai đoạn này chưa có hành vi thực hiện tội phạm.

Như vậy, khi chúng ta xem xét một vụ án có vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc thực hiện tội phạm hay không, thì điều trước hết phải xét là người phạm tội thực hiện tội phạm được dừng lại ở giai đoạn nào, trường hợp phạm tội chưa đạt đã hoàn thành thì mặc dù người phạm tội có tự ý dừng lại không thực hiện nữa cũng không được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Nhưng ngay cả khi thỏa mãn điều kiện trên thì vẫn chưa đủ cơ sở để kết luận kẻ phạm tội tự ý nửa chừng chấm dù việc thực hiện tội phạm, mà sự tự ý đó phải dứt khoát, triệt để chứ không phải là tạm thời, chốc lát.

Ví dụ: một người giả vờ ra đầu thú để chờ cơ hội tiếp tục hoạt động tội phạm thì không được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc thực hiện tội phạm. Một người dùng dao găm đâm nạn nhân bị thương, thấy nạn nhân ra máu nhiều quá, người này không đâm nữa, nhưng nạn nhân bỏ chạy, y lại đuổi theo, nạn nhân bị ngã, y cầm dao đứng nhìn. Cứ như vậy hai, ba lần đến khi nạn nhân chạy thoát trong lúc y vẫn đuổi theo, mặc dù ở đây không có nguyên nhân khách quan ngăn cản y những lần đuổi trước và y cũng không đâm nạn nhân, nhưng sự tự ý của y không dứt khoát, không triệt để, cho nên không thể coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc thực hiện tội phạm được.

Khi có đủ hai diều kiện như đã phân tích ở trên thì được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc thực hiện tội phạm. Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc thực hiện tội phạm được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm. Bộ luật hình sự quy định như vậy thể hiện thái độ dứt khoát về chính sách hình sự của nước ta. Việc quy định như vậy xuất phát từ cơ sở thực tế là hành vi phạm tội xảy ra trước lúc tự ý chấm dứt nửa chừng việc thực hiện tội phạm nói chung đã mất tính nguy hiểm cho xã hội hoặc hậu quả đã được hạn chế ở mức đáng kể. Biện pháp cưỡng chế không hoặc có ít tác dụng đối với người tự ý nửa chừng chấm dứt việc thực hiện tội phạm. Việc miễn trách nhiệm hình sự chính là một biện pháp ngăn ngừa hậu quả nguy hiểm, bảo vệ các quan hệ xã hội.

Tuy nhiên, người tự ý nửa chửng chấm dứt việc thực hiện tội phạm chỉ được miễn trách nhiệm hình sự về tội mà người đó định phạm. Còn hành vi thực tế mà họ đã thực hiện trước khi họ tự ý nửa chừng chấm dứt việc thực hiện tội phạm, nếu có đầy đủ dấu hiệu cấu thành một tội khác thì họ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đó. Ví dụ một người định giết người, nhưng mới đâm một như thấy nạn nhân bị thương, thấy vậy y không đâm nữa tuy không có gì ngăn cản, thì được miễn trách nhiệm hình sự về tội giết người, nhưng người này vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích.

Trong một vụ án đồng phạm, vấn đề tự ý nửa chửng chấm dứt việc thực hiện tội phạm không giống như trường hợp phạm tội riêng rẽ (chỉ có một người thực hiện). Chỉ có người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm mới được áp dụng lý luận về tự ý nửa chừng chấm dứt việc thực hiện tội phạm như trường hợp phạm tội riêng rẽ, còn những người khác như: người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức thì phải có thêm những điều kiện khác ngoài hai điều kiện đã quy định như đối với người thực hành. Những điều kiện đó là:

– Sự tự ý của người đồng phạm phải xảy ra trước khi người thực hành trực tiếp bắt tay vào việc thực hiện tội phạm, vì nếu như người thực hành đã bắt tay vào việc thực hiện tội phạm thì sự tự ý của người đồng phạm không còn tác dụng làm mất tính nguy hiểm cho xã hội mà tội phạm đã gây ra và chính vì vậy mà sự tự ý đó không còn ý nghĩa nữa.

– Đồng thời với sự tự ý, họ phải cô những hành động tích cực ngăn ngừa tội phạm xảy ra, vì họ không phải là người trực tiếp thực hiện tội phạm, nếu như họ chỉ tự ý trong tư tưởng thì tội phạm vẫn xảy ra, hơn nữa nếu họ không có những hành động tích cực ngăn ngừa tội phạm xảy ra thì lấy gì để chứng minh họ tự ý không thực hiện tội phạm nữa? Ví dụ nếu họ cho mượn hung khí, phương tiện thì họ phải đòi lại hoặc trước khi tội phạm được thực hiện họ phải báo với cơ quan có thẩm quyền để có biện pháp ngăn chặn tội phạm xảy ra.

Tóm lại, khi xem xét một vụ án có vấn đề tự ý nửa chửng chấm dứt việc thực hiện tội phạm. chúng ta cần đánh giá toàn bộ vụ án, căn cứ vào những điều kiện về tự ý nửa chừng chấm dứt việc thực hiện tội phạm để xét người thực hiện có phải là tự ý thật sự hay không. Đối với vụ án có đồng phạm, những người không phải là người thực hành thì ngoài những điều kiện chung, bản thân họ còn phải thỏa mãn hai điều kiện riêng thì họ mới được công nhận là tự ý nửa chừng chấm dứt việc thực hiện tội phạm.

Nửa chửng chấm dứt việc phạm tội cũng là trường hợp hậu quả chưa xảy ra, nhưng hậu quả ở đây là hậu quả đối với tội định phạm chứ không phải hậu quả thực tế. Ví dụ: A có ý định giết B nhưng mới đâm B một nhát thấy máu của B ra nhiều, A sợ nên không đâm nữa mặc dù không có ai ngăn cản A. Hành vi của A tuy đã gây ra hậu quả thực tế là làm B bị thương nhưng chưa gây ra hậu quả chết người là hậu quả của tội giết người. Nếu đúng là A tự ý nửa chừng chấm dứt việc giết B thì A được miễn trách nhiệm hình sự về tội giết người. nhưng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích.

Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội chỉ được miễn trách nhiệm hình sự chứ không phải là không có sự việc phạm tội, miễn tức là có trách nhiệm hình sự nhưng được Nhà nước miễn. Về ý nghĩa xã hội, miễn trách nhiệm hình sự cũng giống như loại trừ trách nhiệm hình sự (không còn trách nhiệm hình sự) nhưng về mặt pháp lý họ vẫn có thể bị xử lý bằng biện pháp khác. Do đó miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp này thực chất là miễn truy cứu trách nhiệm hình sự về tội họ định phạm, còn hành vi của họ trên thực tế cấu thành tội gì thì họ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội ấy. Nếu hành vi của họ không cấu thành tội nào được quy định trong Bộ luật Hình sự thì họ không phải chịu trách nhiệm hình sự và trong trường hợp này tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được coi là một trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự.