Tổng hợp bài tập tình huống luật dân sự có gợi ý hướng dẫn trả lời

Bài tập tình huống 1

A 16 tuổi làm nghề hái dừa thuê. Khoảng 09h20 phút ngày 25/02/2017, B thuê A thu hoạch vườn dừa nằm dọc theo đường đi vào xã của mình, thỏa thuận tiền công hái 200.000đồng/cây, B thuê 02 em nhỏ là D (09 tuổi) và E (07 tuổi) đang là học sinh Lớp 2 và Lớp 4 thuộc Trường Tiểu học T làm nhiệm vụ đứng dưới gốc cây để trông chừng, không cho người qua lại. Khi bắt đầu hái được 05 quả, A vô ý làm rơi quả dừa trúng vai bà C là người xã bên, làm bà C phải nằm viện điều trị do xương bả vai bị gẫy, chi phí điều trị 50 triệu đồng.

Bà C yêu cầu A, B, D, E phải trả chi phí đã điều trị cho mình. A không đồng ý cho rằng B phải chịu chi phí điều trị cho bà C; B không đồng ý cho rằng mình đã thuê D và E trông chừng; D và E không đồng ý vì cho rằng mình chưa nhận được tiền. Bà C khởi kiện đến Tòa án yêu cầu Tòa án giải quyết. Trong trường hợp này, Tòa án phải giải quyết thế nào ? Vì sao ? Căn cứ điều, khoản nào?

Gợi ý trả lời:

Xét yêu cầu bồi thường của C, ta thấy rằng:

+ Thực tế có thiệt hại xảy ra đối với bà C: bị gẫy xương bả vai và phải nằm viện, chi phí điều trị 50 triệu đồng.

+ Lỗi dẫn đến thiệt hại của bà C:

* Bà C không có lỗi vì đây là con đường đi vào thôn, bà C ở xã bên không biết việc B đang thực hiện thu hoạch dừa.

* A không có lỗi. Vì thỏa thuận giữa A và B không thể hiện A phải trông chừng người đi phía dưới. Nhiệm vụ này gián tiếp được B thừa nhận là của mình khi thuê 02 em D và E trông chừng người đi vào khu vực hái dừa.

* D và E đã đồng ý việc trông chừng người cho B. Tuy nhiên, xét về năng lực hành vi dân sự của D và E thì cả D và E đều chưa đủ 15 tuổi nên theo quy định tại khoản 3 Điều 21 Bộ luật dân sự (BLDS) 2015 các em chỉ được tự mình thực hiện một số giao dịch  phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi, còn lại các giao dịch khác khi xác lập, thực hiện phải được sự đồng ý của người đại diện. Trong trường hợp này, các em tự mình đồng ý với B nhận thực hiện công việc trông chừng, không cho người khác đi lại dưới gốc trong lúc hái dừa để nhận thù lao là thỏa thuận không được pháp luật thừa nhận theo quy định tại K1-Đ20 BLDS “Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định khác”.

Do đó, theo quy định tại Khoản 3 Điều 605 BLDS 2015 B có trách nhiệm bồi thường

Bài tập tình huống 2

Ông Bình và bà Thanh kết hôn hợp pháp, trong quá trình chung sống sinh được 2 người con gái là Hồng (1976) và Hà (1978), ông bà cũng tạo lập được ngôi nhà ở số 90, đường H. Năm 1980 được sự đồng ý của bà Thanh, ông Bình lấy bà Khánh và sinh được 2 người con chung là chị Hằng (1982) và Thái (1990). Ông Thanh và bà Khánh cũng mua ngôi nhà số 14, đường T với giá 120 triệu đồng vào năm 1998 để 3 mẹ con bà Khánh ở. Năm 1995 bà Thanh chết không để lại di chúc. Năm 2005 ông Bình chết để lại di chúc cho bà Khánh hưởng 2/3 di sản.Tháng 8/2016, do mâu thuẫn nên các con của ông Bình đã khởi kiện xin chia di sản thừa kế của ông Bình và bà Thanh. Được biết:- Ngôi nhà ở là tài sản chung hợp nhất của ông Bình và bà Thanh trị giá 540 triệu đồng (trong giấy tờ sở hữu nhà đứng tên ông Bình).- Ngôi nhà ở là tài sản chung của ông Bình và bà Khánh trị giá 490 triệu đồng.- Sau khi bà Thanh chết, ông Bình và bà Khánh tiếp tục chung sống không có đăng ký kết hôn.
Câu hỏi:
1. Thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế của ông Bình và bà Thanh.
2. Xác định di sản và chia di sản thừa kế trong trường hợp trên.

Gợi ý trả lời

1. Thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế khi bà Thanh chết 1995, thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế khi ông Bình chết 2005. Vì thế thời hiệu khởi kiện trong trường hợp này vẫn còn theo quy định tại khoản 1 Điều 623 BLDS 2015 (Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế). Vì thế thời hiệu khởi kiện trong trường hợp này vẫn còn.

2. Thời điểm mở thừa kế 1: khi bà Thanh chết năm 1995.- Ông Bình và bà Thanh có ngôi nhà là tài sản chung hợp nhất trị giá 540 triệu, về nguyên tắc khi 1 bên chết trước thì tài sản được chia đôi. Phần ông Bình là 270 triệu đồng, phần của Thanh là 270 triệu đồng. Vậy di sản thừa kế mà bà Thanh để lại là 270 triệu đồng.- Do bà Thanh chết không để lại di chúc cho nên di sản thừa kế được chia theo PL (Điều 650, 651 BLDS).- Hàng thừa kế thứ 1: Ông Bình, Hòa và Hà mỗi người được hưởng 1 suất ngang nhau là 90 triệu đồng.

* Thời điểm mở thừa kế 2: khi ông Bình chết năm 2005. Ông Bình và bà Khánh có ngôi nhà là tài sản chung trị giá 490 triệu, về nguyên tắc khi 1 bên chết trước thì tài sản được chia đôi. Phần ông Bình là 245 triệu đồng, phần của Khánh là 245 triệu đồng. Vậy di sản thừa kế mà ông Bình để lại là 605 triệu đồng (Sở hữu riêng từ ngôi nhà với bà Thanh là 270 triệu, được chia thừa kế 90 triệu và tài sản sở hữu riêng từ ngôi nhà với bà Khánh 245 triệu đồng). Di sản được chia theo PL là 1/3 vì ông Bình không định đoạt là: 202 triệu đồng.

– Hàng thừa kế thứ 1: Hòa, Hà, Hằng và Thái (còn bà Khánh không được thừa kế vì hôn nhân trái PL vi phạm chế độ 1 vợ 1 chồng) mỗi người được hưởng 1 suất ngang nhau là 50,5 triệu đồng. Chia theo di chúc, bà khánh được hưởng 2/3: 403 triệu đồng. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc là Thái phải được hưởng 2/3 của suất nếu di sản chia theo PL (Điều 644 BLDS) là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc.- Xác định 2/3 suất. giả sử nếu không có di chúc thì 2/3 của suất được chia theo PL là: 605/4 x 2/3 = 101 triệu đồng.- Vậy Thái phải được hưởng 101 triệu, nhưng đã được hưởng theo PL là 50,5 triệu nên còn thiếu 50,5 triệu lấy từ di chúc. Do vậy bà Khánh chỉ được hưởng: 403 – 50,5 = 352,5 triệu.- Vậy bà Khánh hưởng theo di chúc là: 352,5 triệu đồng. Thái được hưởng không phụ thuộc vào nội dung di chúc là 101 triệu đồng. Hòa, Hà được hưởng theo PL là 50,5 triệu đồng.

Bài tập tình huống 3

A ký hợp đồng vay B 500.000.000 đồng, thời hạn vay là 1 năm tính từ ngày 1/1/2017. Để đảm bảo việc thực hiện hợp đồng, A đã ký hợp đồng thế chấp cho B chiếc xe ô tô BKS 89K7 – 7165 của mình được xác định có trị giá 550.000.000 đồng. Chiếc xe ô tô này trước đó A đã được thế chấp cho C. Tuy nhiên tại thời điểm ký hợp đồng thế chấp A giấu không cho B biết việc thế chấp này nên đến ngày 1/4/2017 B biết thông tin về việc A thế chấp xe cho nhiều người. Do vậy ngày 01/5/2017 B gửi đơn đến TAND huyện K giải quyết vụ tranh chấp trên? Như vậy trong trường hợp này Tòa án sẽ giải quyết như thế nào?

Gợi ý trả lời:

Căn cứ Khoản 7 Điều 320 BLDS 2015 thì bên thế chấp có nghĩa vụ “ thông báo cho bên nhận thế chấp về các quyền của người thứ ba đối với tài sản thế chấp nếu có; trường hợp không thông báo thì bên nhận thế chấp có quyền hủy bỏ hợp đồng thế chấp và yêu cầu bồi thường thiệt hại….”

Như vậy căn cứ quy định trên thì tòa án ra quyết định hủy bỏ hợp đồng thế chấp giữa các bên và buộc bên B phải bồi thường thiệt hại cho bên A